Ý nghĩa biểu trưng và biểu tượng trong âm nhạc

24/10/2022 07:40

Đi trên đường phố, trên tàu xe, đôi khi ta bắt gặp những ánh mắt vui tươi của những thanh thiếu niên mang trên ngực hình ảnh cây đàn Lia (Lyre) với những nét thẳng đứng của cây đàn đặt chính giữa hộp đàn có những đường cong theo hình chữ S mềm mại, duyên dáng, ta hiểu ngay đó là những em học sinh của một trường âm nhạc nào đó...

Ảnh minh họa (Ảnh: TL) 

Từ những năm xa xưa thời cổ đại Hy lạp, con người đã biết đến cây đàn Lia. Đơn sơ vậy mà nó mang một sức mạnh phi thường. Chính thi sĩ Oóc-phê của thời huyền thoại đã từng hát vang những câu thơ bất hủ trên nền đệm của tiếng đàn Lia trong tay chàng.

Sử sách kể rằng, khi những âm thanh đó vang lên thì suối, sông ngừng chảy, đá đổ rào rào, chim ngừng tiếng hát, muông thú ngẩn ngơ… Người ta cũng kể rằng Amphion đã xây thành Thebes bằng chính cây đàn Lia bằng vàng của mình. Thật lãng mạn và kỳ thú khi sau mỗi tiếng đàn, từng hòn đá lại bật lên và ngoan ngoãn lăn vào vị trí của mình để xây thành những bức tường kiên cố.

Cây đàn Lia từ thời cổ đại với những câu chuyện thần thoại về sức mạnh của nó đã đi vào lịch sử, trở thành biểu tượng của âm nhạc. Nói theo người xưa thì cái “hiển” (thể hiện bên ngoài) ở đây chính là hình dáng chiếc đàn Lia, còn cái “ mật” (ẩn náu bên trong) chính là sức mạnh kỳ diệu của âm nhạc.

Theo định nghĩa của một số nhà nghiên cứu thì “âm nhạc là loại hình nghệ thuật biểu hiện, sử dụng âm thanh để diễn ra tư tưởng, tình cảm, đời sống con người”. Định nghĩa cho ta thấy ý nghĩa biểu trưng rất rộng lớn của hình thức nghệ thuật này. Ta hãy tìm hiểu nó từ những ký hiệu cụ thể ban đầu đến những tác phẩm âm nhạc hoàn chỉnh.

Khuông - khóa - nốt: Từ thế kỷ thứ II sau công nguyên, người Hy lạp đã dùng chữ cái để ghi nhạc, đó là những ký hiệu đầu tiên được dùng để ghi tên của những âm thanh bay bổng trong không gian. Cho đến thế kỷ thứ XI các ký hiệu đã được định hình với các chữ A = la, B = si, C = đô, D = rê, E = mi, F = pha, G = son. Hình thức này tồn tại không lâu và nhường chỗ cho những nốt nằm trên đường kẻ có độ cao rõ ràng hơn. Đã có thời kỳ người ta dùng tới 11 đường kẻ để ghi nhạc, ở đầu các dòng kẻ đó có chữ để ghi tên nốt. Trên con đường cải tiến, người ta thấy rằng khuông nhạc trên khó nhìn, dễ gây nhầm lẫn nên đã tách ra thành 2 khuông nhạc 5 đường với hai chữ cái khác nhau ở hai đầu: “g” cho những âm thanh cao, “f” cho những âm thanh trầm và “c” cho những âm thanh trung.

Qua một thời gian dài, chữ “g” biến dạng thành khóa son dùng cho giọng hát và nhạc cụ có tầm cữ cao như sáo, viôlông... chữ “f” biến thành khóa Pha dùng cho các giọng hát và nhạc cụ có âm vực trầm như nam trầm, contrabasse,...

Hình nốt

Trong cuộc sống để thuận tiện và nhanh hơn, người ta viết các hình nốt là tròn, trắng, đen, đơn, kép, tam, tứ.

Thật thú vị và dí dỏm khi một nhạc sĩ đã nhân cách hóa ý nghĩa của hình nốt trong bài thơ sau:

“Anh tròn béo múp chậm ghê

Trắng ta bụng phệ cứ chê anh tròn

Tròn rằng xin chớ nói khôn

Trong đời lắm kẻ còn hơn anh nhiều

Anh đen mới thật đáng yêu

Dáng người gọn khỏe bước đều khoan thai

Thế mà cũng chẳng hơn ai,

Họ hàng nhà móc còn tài bao nhiêu

Anh em hẳn cũng chẳng đều

Móc Hai, Ba, Bốn càng nhiều càng nhanh…

Trắng nghe tỏ vẻ bất bình

Phải nhờ anh khóa điều đình mới thông,

Khóa rằng: “Anh chậm hay không?

Cãi nhau vã mãi liệu hòng lợi chi?

Đề rồi phân cách chia ly,

Từng anh riêng lẻ ích gì chậm nhanh

Yêu nhau như thể em, anh

Đoàn kết chặt chẽ ắt thành bài ca”

Đúng, bản nhạc với những âm hình nốt trắng, đen là hình ảnh của một tập thể những người dáng vóc khác nhau. Họ không sống tách rời, quay lưng lai với nhau mà liên kết với nhau thành những bài ca để ca ngợi cuộc sống tươi vui của mình.

Âm sắc

Âm sắc là một trong những yếu tố quan trọng đóng góp vào việc xây dựng hình tượng âm nhạc.

Giọng người chia thành 4 tầm cữ chính:

Giọng nữ cao S (Soprano)

Giọng nữ trầm A (Alto)

Giọng nam cao T (Tenor)

Giọng nam trầm (Bass)

Bên cạnh độ cao, cần phải nói đến âm sắc và khả năng biểu đạt của nó. Lấy 2 giọng cao nhất và thấp nhất để dễ phân biệt thì ta thấy giọng nữ cao biểu đạt sự tươi vui, trong sáng. Nếu ví dụ dàn hợp xướng như một gia đình thì giọng nữ cao là cô gái bé nhỏ nhí nhảnh tươi vui. Quả vậy, nghệ sĩ nhân dân Tường Vi đã rất đạt khi sử dụng chất giọng nữ cao của mình để biểu đạt sự tươi vui qua bài “Cô gái vót chông” của Hoàng Hiệp, ta hình dung ra những tiếng chim cao chót vót, rộn ràng và qua đó nhận ngay được tình cảm tươi vui mà tác giả gửi đến người nghe.

Còn giọng nam trầm, có thể ví như người cha trong một gia đình. Nó có dáng ấm cúng, oai nghiêm, đĩnh đạc, đường bệ làm nền cho cả 4 bè hợp xướng. Vì vậy, Nghệ sĩ Nhân dân Trần Hiếu, với giọng nam trầm hiếm có của mình, đã khắc họa một cảnh tuyệt vời với những bước chân nặng nề, chậm chạp của những chú voi khổng lồ, khi trình bày bài “Con voi” của Nguyễn Xuân Khoát.

Ta cũng có thể thấy ý nghĩa biểu trưng qua âm sắc của nhiều nhạc cụ. Với tiếng sáo tre, người Việt Nam ai cũng liên tưởng đến cánh đồng quê xanh rờn, một khoảng trời trong vắt, không thể nghĩ đến một thành phố náo nhiệt, một cuộc sống hối hả, lại là càng không phải là một cuộc chiến tranh tàn khốc. Vì sao vậy? Vì cây sáo làm bằng tre, những cây tre chỉ được trồng nơi thôn xóm làng quê thanh bình, âm thanh trong vắt của nó khơi gợi những cảm nghĩ về  một mảnh trời với những cánh diều bay bổng, đem lại cho tâm hồn một cảm giác thư thái, yên vui. Do vậy, khi cây sáo tấu lên giai điệu của bài “Thiên thai” (Văn Cao) người nghe như được đưa vào cõi mơ tiên cảnh.

Ngược lại, kèn Cor với âm sắc trầm của nó lại là sự biểu trưng trong sự tĩnh mịch, tính chất huyền bí của núi rừng. Biểu trưng này được hình thành từ những kèn săn muông thú từ thời xưa, nay được cải tiến thành những kèn Cor bằng đồng nằm trong bộ đồng của các dàn nhạc. Không ít những tác giả đã sử dụng âm sắc kèn Cor để nói lên những suy nghĩ về núi rừng trong tác phẩm của mình.

Đó là rừng nói chung, còn rừng Việt Nam thì đàn T’rưng cũng có mối liên hệ chặt chẽ. Cây đàn đơn sơ cấu tạo bằng tre nứa của núi rừng có thể cho những cảm xúc về rừng, nơi sinh ra nó, qua những âm thanh trong trẻo như tiếng suối róc rách trong khe đá…

Đàn K’lông pút bằng tre vầu đem lại âm sắc biểu đạt tính chất hùng vĩ của núi rừng. Nhạc sĩ Tạ Tấn khi viết nhạc Vũ khúc Tây Nguyên cho ghi-ta muốn thể hiện ý tưởng của mình về sự hùng vĩ của núi rừng Tây Nguyên cũng đã phải biến tiếng đàn ghi –ta thành tiếng đàn K’lông pút bằng cách mô phỏng dưới hình thức búng (pizzicato )

Như một nhà lý luận đã nói; âm nhạc là loại hình nghệ thuật đòi hỏi 3 lần sáng tạo. Sáng tạo thứ nhất thuộc người viết nên tác phẩm, dĩ nhiên mới chỉ là trên giấy trắng mực đen, chưa đem lại hiệu quả mong muốn. Sáng tạo thứ hai thuộc người biểu diễn khi đem biểu diễn những tác phẩm với cảm nhận của riêng mình. Còn sáng tạo thứ ba thuộc về người nghe khi cái “mật” dấu kín trong âm nhạc được người nghe tìm đến bằng cách giải mã, thả trí tưởng tượng và cuối cùng và cuối cùng hiểu được điều tác giả gửi gắm. Khi “hiển mật viên thông” thì nghệ thuật âm nhạc đã đạt tới đỉnh cao và tạo nên sức mạnh phi thường.

Cho nên muốn hiểu được âm nhạc, thấy được ý nghĩa biểu trưng của từng yếu tố âm nhạc, hiểu được hình tượng âm nhạc, muốn thực sự có những rung động trước một tác phẩm âm nhạc, chúng ta phải học hỏi để tìm hiểu nó sâu thêm, đồng thời phải nghe nhạc với đôi tai say mê thưởng thức nghệ thuật. Và có như vậy thì âm nhạc mới phát huy hết sức mạnh của nó để làm nên những điều diệu ký mà chúng ta đã thấy trong phong trào “ Tiếng hát át tiếng bom” thời chống Mỹ cũng như công cuộc xây dựng đất nước ngày nay./.

 
Nguyễn Trần Hùng
Nguồn dangcongsan.vn
Viết bình luận mới