Kỳ bí về Bà Chúa Xứ núi Sam

19/03/2025 13:28

Nguồn gốc pho tượng và lai lịch Bà Chúa Xứ núi Sam mãi là bí ẩn lịch sử, nhưng hàng thế kỷ qua luôn là chỗ dựa tinh thần mãnh liệt của người dân.

Các sử liệu và truyền thuyết của cư dân làng Vĩnh Tế đều thừa nhận, tượng Bà Chúa Xứ không biết từ đâu đến, nhưng từ rất lâu đã ngự trị ở lưng chừng núi Sam (Học Lãnh sơn). Đây có thể là sản phẩm của nền văn hóa Óc Eo thời Vương quốc Phú Nam từ thế kỷ I - VII, hay còn xa hơn. Tin tưởng vào sự linh thiêng của pho tượng, cư dân bản địa thường đến đốt nhang cầu nguyện không bị thú dữ tấn công, mong mưa thuận gió hòa, gia đình ấm êm, hạnh phúc và sự việc đều được đáp ứng. Từ đó, pho tượng cao 1,65m trở thành chỗ dựa tinh thần của người dân, đặt tượng là Bà Chúa Xứ, dù chỉ biết tượng làm bằng đá, không rõ nam hay là nữ.

Hai thế kỷ đã trôi qua, “hộ khẩu” Bà Chúa Xứ núi Sam, cũng như nguồn gốc của pho tượng và giai thoại về di chuyển tượng Bà cùng nhiều sự việc liên quan mãi là bí ẩn. Nhưng hơn tất cả, tượng Bà rất linh hiển, được người dân tin tưởng, sùng bái. Từ ngày 23 - 27/4 âm lịch hàng năm, bình quân có hàng triệu lượt người từ khắp nơi, cả trong lẫn ngoài nước đến chiêm bái, kính viếng, cầu xin Bà ban phước lành, điều may mắn và được linh ứng. 

 

 

Di chuyển tượng Bà Chúa Xứ

Với mong muốn thờ cúng Bà Chúa Xứ thuận tiện, trang nghiêm, các bậc cao niên thời đó bàn nhau di chuyển pho tượng xuống triền núi để xây miếu thờ Bà (hiện tọa lạc khóm Vĩnh Tây 1, phường núi Sam, TP. Châu Đốc). Cúng lạy xong, 9 thanh niên lực lưỡng được giao nhiệm vụ khiêng tượng Bà, dù cố sức hết sức nhưng pho tượng không hề nhúc nhích. Ngay lúc đó, “cô gái được Bà đạp đồng” báo phải cử 9 cô gái đồng trinh, tắm gội sạch sẽ lên triền núi làm lễ rước Bà mới chịu xuống. Sau khi làm theo, 9 cô gái khiêng pho tượng nhẹ nhàng, nhưng đi đến chỗ lập miếu thờ hiện nay, tượng Bà bỗng nặng trĩu, không thể di chuyển được. Các bậc trưởng lão cho rằng, Bà muốn tựa lưng vào vách núi an vị để nhìn dân làng làm ăn sinh sống. Đó là ý nguyện của Bà Chúa Xứ.

Liên quan đến tượng Bà, có một truyền thuyết lúc quân Xiêm hay qua vùng núi Sam quấy nhiễu và cướp bóc vào khoảng những năm 1820. Một hôm, chúng gặp tượng Bà, lấy dây buộc rồi khiêng xuống núi để mang về nước. Khiêng được một đoạn ngắn, tượng Bà bỗng nặng trĩu, không thể nhấc lên được. Tên giặc tức giận đập vào pho tượng và tức khắc bị Bà trừng phạt, còn những tên còn lại hoảng sợ bỏ chạy. Chính điện của miếu Bà còn có câu đối: “Cầu tất ứng, thí tất linh, mộng trung chỉ thị/ Xiêm khả kinh, Thanh khả mộ, ý ngoại nan lượng”. Có nghĩa là: “Cầu bà tất được, ban thì tất linh, báo điềm trong mộng/ Người Xiêm khiếp sợ, người Thanh kính nể, không thể tưởng tượng được”.

Nói đến pho tượng Bà với truyền thông, TS Lâm Quang Láng, Phó Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử tỉnh cho biết, “tập quán tín ngưỡng của người Việt thờ nữ thần và có thể Bà Chúa Xứ được dựng lên theo chủ ý của ông Thoại Ngọc Hầu. Trước tình hình dịch bệnh hoành hành, lam sơn chướng khí bào mòn sức dân, làm cho lòng người dao động, ông Thoại Ngọc Hầu đã cho thỉnh pho tượng từ trên núi xuống và lập miếu thờ Bà để người dân tin có thế lực siêu nhiên phù hộ, chở che, vững tâm vượt qua khó khăn, xây dựng cuộc sống trên vùng đất “phên giậu” của đất nước”. 

Theo một dị bản khác, tương truyền có 8 vạn nhân công được huy động đào kênh Vĩnh Tế, nhưng khi vào cuộc thì liên tiếp gặp cảnh người bệnh tật, thú dữ tấn công và chết vì tai nạn. Nghe dân làng về sự linh thiêng của Bà Chúa Xứ, phu nhân Thoại Ngọc Hầu, bà Châu Thị Tế lên núi Sam khấn vái pho tượng thiêng. Quả nhiên, sau ngày hành lễ, việc đào kênh được diễn ra suôn sẻ. Tin tưởng và tạ ơn, ông Thoại Ngọc Hầu quyết định xây dựng miếu Bà Chúa Xứ để người dân thờ cúng trang nghiêm, thuận lợi.

 

 

Nguồn gốc tượng Bà Chúa Xứ 

Theo nhà khảo cổ học người Pháp Malleret đến nghiên cứu vào năm 1941, tượng Bà Chúa Xứ núi Sam có nguồn gốc từ Ấn Độ, thuộc loại tượng thần Vishnu (nam thần), là một trong 3 vị thần tối cao trong Bàlamôn giáo. Pho tượng cao 1,65m, làm bằng đá sa thạch (còn gọi là đá son), giá trị nghệ thuật cao, tạc dáng người nghĩ ngợi, quý phái, ra đời vào khoảng cuối thế kỷ thứ VI và có thể đây là một trong số hiện vật cổ còn sót lại của nền văn hóa Óc Eo xưa. Trước đây, tượng Bà được đặt trên bệ đá ở phía Đông Nam trên đỉnh núi Sam. Bệ đá có chiều ngang 1,6m, dày 0,3m, chính giữa có lỗ vuông cạnh 0,34m thuộc loại đá trầm tích thạch màu xanh đen, hạt nhuyễn. Theo nghiên cứu, đây là loại đá không có ở địa phượng.

Trong tác phẩm “Đồng bằng sông Cửu Long - nét sinh hoạt xưa”, cố nhà văn Sơn Nam nhận định, tượng Bà Chúa Xứ là pho tượng Phật đàn ông của người Khmer và tượng này bị bỏ quên lâu đời trên đỉnh núi Sam. Người Việt từ Bắc di cư vào, đưa pho tượng vào miếu, dùng sơn điểm tô, mặc áo lụa, đeo dây chuyền và biến pho tượng đàn ông thành đàn bà. Ông Trần Văn Dũng, tác giả cuốn “Lịch sử khai phá vùng đất Châu Đốc 1757 - 1857”, cũng khẳng định tượng Bà Chúa Xứ là tượng nam, ngồi ở tư thế vương giả. Phần đầu của tượng không phải là nguyên gốc mà được chế tác sau bằng loại đá không giống thân tượng.

 Về ngôi miếu và tượng Bà Chúa Xứ

Ban đầu, miếu được cất đơn sơ bằng tre lá, nằm trên vùng đất trũng phía tây bắc núi Sam, lưng quay về vách núi, chính điện nhìn ra con đường và cánh đồng làng Vĩnh Tế xưa. Năm 1870, ngôi miếu được xây dựng lại bằng gạch hồ ô dước. Năm 1962, ngôi miếu được tu sửa khang trang bằng đá miếng và lợp ngói âm dương. Năm 1965, Hội Quý tế cho xây nới rộng nhà khách và làm hàng rào nhà chính điện của ngôi miếu. Năm 1972, ngôi miếu được tái thiết lớn và hoàn thành vào năm 1976, tạo nên dáng vẻ như hiện nay, người thiết kế là 2 kiến trúc sư Huỳnh Kim Mãng và Nguyễn Bá Lăng.

Đến tận ngày nay, nguồn gốc tượng Bà cũng như lai lịch về Bà Chúa Xứ núi Sam còn là một bí ẩn, huyền thoại. Những giai thoại này tiếp tục lưu truyền cho thế hệ mai sau. Tuy nhiên, dù pho tượng là nam thần hay nữ thần và nguồn gốc đến từ đâu, nhưng trong tâm thức không chỉ của người dân Nam Bộ, Bà Chúa Xứ luôn là điểm tựa tâm linh. Người dân đến viếng Bà với tấm lòng kính ngưỡng, sùng bái, tin tưởng Bà là nữ thần đầy quyền năng, phù hộ cho đất nước thái bình, bờ cõi bình yên, Nhân dân đoàn kết vượt qua khó khăn, làm ăn phát đạt, cuộc sống ấm no, hưng thịnh… Với nguyện vọng đó, hàng năm, hàng triệu du khách khắp nơi tụ hội về kính viếng, chiêm bái, tạ ơn Bà.

Với lịch sử phát triển và bề thế hiện có, miếu Bà Chúa Xứ núi Sam được Trung tâm Sách kỷ lục Việt Nam xác lập là ngôi miếu lớn nhất Việt Nam vào ngày 25/5/2008, với khuôn viên rộng khoảng 3.000m2. Năm 2009, tượng Bà được ghi vào sách Kỷ lục An Giang là bức tượng bằng đá sa thạch xưa nhất Việt Nam và có áo phụng cúng nhiều nhất. Tượng Bà được Trung tâm Sách kỷ lục Việt Nam công nhận là tượng Bà bằng đá sa thạch xưa và lớn nhất Việt Nam...

Nguồn: baoangiang.com.vn

Viết bình luận mới